Dù con số dư nợ tín dụng bất động sản ở TP HCM vẫn đang nằm trong ngưỡng an toàn nhưng ở góc nhìn của một tổ chức đại diện cho doanh nghiệp trong ngành, Hiệp hội Bất động sản TP HCM (HoREA) vẫn đưa ra lời cảnh báo về rủi ro tiềm ẩn khi các khoản vay có thể chuyển sang nợ xấu.
Theo số liệu từ Hiệp hội Bất động sản TP HCM (HoREA), tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn thành phố trong 10 tháng đầu năm 2020 vào khoảng 2,42 triệu tỷ đồng (tương đương trên 104 tỷ USD), tăng 5,5% so với cuối năm 2019. Trong đó, nợ trung và dài hạn chiếm 52%.
Riêng ở lĩnh vực bất động sản, dư nợ tín dụng khoảng 293.750 tỷ đồng (tương đương 12,7 tỷ USD), tăng gần 6% so với cuối năm 2019. Trong đó, nợ xấu của doanh nghiệp bất động sản chiếm 2,7% tổng dư nợ.
Đối với chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở (gói 30.000 tỷ đồng theo Nghị quyết 02/NQ-CP của Chính phủ), dư nợ còn 2.985 tỷ đồng với 8.554 khách hàng, bao gồm hai doanh nghiệp dư nợ 120 tỷ đồng và 8.552 cá nhân, hộ gia đình dư nợ 2.865 tỷ đồng.
Theo dự báo của HoREA, từ nay đến Tết Âm lịch Tân Sửu và cả năm 2021, thị trường bất động sản cả nước và TPHCM sẽ tiếp tục đà phục hồi và tăng trưởng trở lại, do có những tác động tích cực từ việc cả nước kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 và Nhà nước đã có một số cơ chế chính sách mới tháo gỡ vướng mắc cho thị trường.
Quan trọng nhất là việc thành phố xây dựng đề án thành lập thành phố Thủ Đức thuộc TPHCM là đô thị sáng tạo có tính tương tác cao, là đô thị loại 1, có quy mô kinh tế bằng khoảng 7-8% GDP cả nước, chiếm đến 1/3 GRDP của thành phố. Đây được coi là chất xúc tác quan trọng giúp thị trường bất động sản TPHCM tiếp tục đà phục hồi và tăng trưởng nhanh hơn so với cả nước.
"Cần quan tâm đến dư nợ tín dụng tiêu dùng, nhất là đối với một số khoản vay sửa nhà, xây nhà, nhưng chuyển sang kinh doanh bất động sản. Số này chiếm 1,7% tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng, cần phải có cơ chế kiểm soát và quản lý phù hợp", ông Lê Hoàng Châu lưu ý.Theo ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch HoREA, dư nợ tín dụng và nợ xấu bất động sản tại TPHCM vẫn còn trong ngưỡng an toàn nhưng tiềm ẩn rủi ro. Khả năng một số khoản vay tín dụng bất động sản có nguy cơ chuyển thành nợ xấu, trong đó có cả nguồn vốn đầu tư trái phiếu bất động sản của các tổ chức tín dụng và cá nhân.
Ngoài ra, trong 9 tháng đầu năm nay, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã có 1.089 đợt phát hành từ 175 doanh nghiệp với tổng giá trị 341.000 tỷ đồng, tăng 79% so với cùng kỳ năm 2019, theo số liệu của HoREA. Trong đó, các doanh nghiệp bất động sản phát hành 173.500 tỷ đồng, chiếm hơn 40% và đây là tỷ trọng cao nhất toàn thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
"Nhưng đáng quan ngại là tỷ lệ nhà đầu tư cá nhân chiếm hơn 20% số lượng nhà đầu tư và nguồn vốn đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng chiếm tỷ trọng lớn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là vào thời điểm đáo hạn trái phiếu", ông Châu nhận định.
Tuy nhiên ngày 1/9 vừa qua Nghị định 81/2020/NĐ-CP có hiệu lực, quy định chặt chẽ các điều kiện phát hành đã khống chế được phần nào. Qua đó lượng trái phiếu tháng 9 giảm đến 84% so với tháng 8. Đồng thời, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, nhất là trái phiếu bất động sản sẽ được kiểm soát chặt chẽ hơn.
Dẫu vậy, bất cập lớn hiện nay là chưa có các tổ chức tư vấn uy tín (tương tự như Fitch Ratings) để đánh giá, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhằm đảm bảo minh bạch thông tin cũng như góp phần bảo vệ nhà đầu tư trái phiếu.
Trong khi đó, nhận định chung về thị trường bất động sản 10 tháng của năm 2020, báo cáo của HoREA chỉ rõ từ tháng 3 đến tháng 7/2020, thị trường bất động sản bị tác động nặng nề bởi đại dịch Covid-19, làm trầm trọng thêm những khó khăn sẵn có của thị trường bất động sản trong 3 năm gần đây. Thị trường bị sụt giảm cả nguồn cung dự án và nguồn cung sản phẩm nhà ở, nhất là loại căn hộ có giá vừa túi tiền và nhà ở xã hội.
Dù nguồn cung dự án nhà ở bị sụt giảm mạnh trong 7 tháng đầu năm nhưng đã có dấu hiệu cải thiện từ tháng 8 đến nay. Về cơ cấu sản phẩm nhà ở cho thấy rõ nét tình trạng lệch pha cung-cầu trên thị trường, phát triển thiếu cân đối, thiếu bền vững do thiếu nhà ở vừa túi tiền, nhà ở bình dân, nhà ở xã hội và có dấu hiệu thừa cung nhà ở cao cấp.
Link bài gốc