Bà N.T.T.H ở Lào Cai phản ánh, bà công tác tại công ty TNHH hai thành viên trở lên, hoạt động ổn định từ năm 2002 đến nay.
Tháng 9/2025, các thành viên góp vốn đề xuất việc giảm vốn điều lệ để hoàn trả lại một phần vốn góp cho từng thành viên, với tỷ lệ 45% trên số vốn đã góp. Số tiền hoàn trả cho các thành viên không phát sinh chênh lệch so với giá trị vốn góp ban đầu.
Bà H hỏi, khi công ty thực hiện hoàn trả vốn góp cho các thành viên như trên thì số tiền các thành viên nhận được có phải nộp thuế thu nhập cá nhân hay không?
Nếu có phát sinh nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân, việc kê khai sẽ được thực hiện theo quy định nào? Trong trường hợp phải kê khai thuế thu nhập cá nhân, công ty có thể thực hiện kê khai thay cho các cá nhân hay không?
Trả lời vấn đề này, Thuế tỉnh Lào Cai có ý kiến như sau:
Tại điểm d khoản 3 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính, quy định, thu nhập từ đầu tư vốn là khoản thu nhập cá nhân nhận được dưới hình thức phần tăng thêm của giá trị vốn góp nhận được khi giải thể doanh nghiệp, chuyển đổi mô hình hoạt động, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp hoặc khi rút vốn.
Như vậy, cổ đông được nhận hoàn trả một phần vốn góp mà phát sinh phần tăng thêm của giá trị vốn góp so với số vốn góp ban đầu thì phần tăng thêm này sẽ bị tính thuế thu nhập cá nhân.
Ngược lại, nếu không phát sinh phần tăng thêm của giá trị vốn góp so với số vốn góp ban đầu thì khoản tiền nhận hoàn trả này sẽ không thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 10 Thông tư 111/2013/TT-BTC thì căn cứ tính thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn là thu nhập tính thuế và thuế suất. Theo đó, thu nhập tính thuế là phần thu nhập chịu thuế mà cá nhân nhận được theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-BTC.
Và thuế suất đối với thu nhập từ đầu tư vốn áp dụng theo Biểu thuế toàn phần với thuế suất là 5%.
Về thời điểm xác định thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho người nộp thuế.
Đối với thu nhập từ giá trị phần vốn góp tăng thêm theo hướng dẫn tại điểm d khoản 3 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC thì thời điểm xác định thu nhập từ đầu tư vốn là thời điểm cá nhân thực nhận thu nhập khi giải thể doanh nghiệp, chuyển đổi mô hình hoạt động, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp hoặc khi rút vốn.
Đối với thu nhập từ lợi tức ghi tăng vốn theo hướng dẫn tại điểm g khoản 3 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC thì thời điểm xác định thu nhập từ đầu tư vốn là thời điểm cá nhân chuyển nhượng vốn, rút vốn.
Đối với thu nhập từ cổ tức trả bằng cổ phiếu theo hướng dẫn tại điểm g khoản 3 Điều 2 số 111/2013/TT-BTC thì thời điểm xác định thu nhập từ đầu tư vốn là thời điểm cá nhân chuyển nhượng cổ phiếu.
Trường hợp cá nhân nhận được thu nhập do việc đầu tư vốn ra nước ngoài dưới mọi hình thức thì thời điểm xác định thu nhập tính thuế là thời điểm cá nhân nhận thu nhập.
Như vậy, đối với khoản tiền cổ đông được nhận hoàn trả từ một phần vốn góp, thuế thu nhập cá nhân sẽ được tính từ lúc cổ đông thực nhận thu nhập khi công ty giải thể, chuyển đổi mô hình hoạt động, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất hoặc khi rút vốn.