Huyền thoại về con đường tiền tệ chi viện cho chiến trường

Nhật Thu

Trong cuộc trường chinh giữ nước của dân tộc, có một con đường lặng thầm mà bền bỉ, không trực diện chiến đấu nhưng góp phần to lớn cho thắng lợi chung của quân và dân ta, đó là con đường tiền tệ chi viện cho chiến trường miền Nam.

Đoàn cán bộ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam làm việc với Ban Kinh tài về số liệu của Trung ương chi viện cho B2. (Ảnh trong bài: tư liệu)
Đoàn cán bộ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam làm việc với Ban Kinh tài về số liệu của Trung ương chi viện cho B2. (Ảnh trong bài: tư liệu)

Những đơn vị được giao nhiệm vụ vận chuyển tiền

Tài liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ghi nhận, từ năm 1959, Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh và thông qua Luật 10/59, thành lập các tòa án quân sự đặc biệt để xử những người cộng sản. Trước thực tế đầy khó khăn, hệ thống nhân lực và các tổ chức quần chúng, các đơn vị bộ đội, các cơ quan xứ ủy phải hoạt động theo phương thức mới.

Vấn đề đặt ra là phải có tiền để giải quyết “bài toán” hậu cần tại chỗ. Việc tăng cường chi viện tài chính cho miền Nam là nhu cầu bức thiết, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một kế hoạch lịch sử được trình lên. Đó là thành lập Quỹ ngoại tệ đặc biệt để thông qua công tác, vận động các tổ chức quốc tế, Việt kiều ở nước ngoài thực hiện đàm phán với Chính phủ các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa để có ngoại tệ tự do chuyển đổi chi viện cho chiến trường miền Nam

Mật danh là B29 được thành lập. Lịch sử Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ghi lại: “Tháng 4/1965, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn khốc liệt, theo chỉ thị của Bộ Chính trị, NHNN đã thành lập một tổ chức chuyên trách nghiệp vụ thanh toán đặc biệt với bí danh B29 tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Với lực lượng chỉ vỏn vẹn 10 người, B29 có nhiệm vụ đặc biệt: tiếp nhận, kiểm đếm và tổ chức vận chuyển nguồn ngoại tệ viện trợ từ nước ngoài vào chiến trường miền Nam - nơi từng đồng đô la có thể đổi lấy thuốc men và khí tài”.

Chiếc hòm được dùng để đựng tiền trong giai đoạn chi viện cho miền Nam.
Chiếc hòm được dùng để đựng tiền trong giai đoạn chi viện cho miền Nam.

Ở phía Nam, Ban Tài chính đặc biệt, mang mật danh N2683 thuộc Ban Kinh tài Trung ương thuộc miền Nam giữ vai trò đầu tiếp nhận của Quỹ Ngoại tệ đặc biệt, nhận USD từ B29 rồi theo chỉ đạo của Ban Kinh tài, “chế biến” thành các loại tiền quốc tế để cung cấp cho các tổ chức chính Đảng và lực lượng quân giải phóng ở các mặt trận Campuchia, Lào, Thái Lan và chiến trường miền Nam.

Cùng với N2683, ở miền Nam còn có một đơn vị nữa tham gia với tư cách là đơn vị kho quỹ mật danh là C32, trực thuộc Ban Kinh tài của Trung ương Cục miền Nam. C32 là đầu mối tổng quỹ, tiếp nhận các nguồn tiền mặt từ Trung ương phân bổ vào và do N2683 cung cấp.

Những cuộc vận chuyển tiền “vô tiền khoáng hậu”

Thời gian đầu, việc chuyển tiền vào miền Nam vô cùng khó khăn. Tiền được đặt trong những hòm kẽm chống cháy, cho vào thùng gỗ ngụy trang chất lên những chiếc xe tải của đơn vị C100 thuộc Đoàn 559 vận chuyển dọc đường Trường Sơn. Trên đường đi, những chuyến xe mang theo món hàng đặc biệt này thường xuyên phải đối mặt với các trạm càn của địch, máy bay bắn phá và gián điệp biệt kích rình mò phá hoại bằng đủ loại thiết bị và phương tiện tối tân. Trên con đường ấy, nhiều người đã anh dũng hy sinh để bảo vệ những hòm tiền hàng chục triệu USD. Có chuyến xe vận tải bị trúng bom của Mỹ làm cháy nổ, tuy không cháy nhưng hàng triệu đô la bị om nhiệt.

Vận chuyển bằng đường mòn Hồ Chí Minh một thời gian, con đường vận chuyển được mở thêm qua những chuyến tàu không số trên biển nhưng cũng chỉ được vài chuyến thì địch nghi ngờ, càn quét quyết liệt.

Thực tế sau một thời gian vận chuyển, cả hai tuyến đường bộ và đường biển đều tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cho đến khi quan hệ ngoại giao giữa Chính phủ cách mạng với Chính phủ Campuchia tốt hơn, mới có thêm một tuyến vận chuyển mới nhanh và an toàn hơn. Đó là vận chuyển tiền qua đường hàng không.

Xe tải thuộc Đoàn 559 - một trong những phương tiện vận chuyển tiền.
Xe tải thuộc Đoàn 559 - một trong những phương tiện vận chuyển tiền.

Bằng con đường này, tổ chức cử người giả làm cán bộ ngoại giao, xách đô la từ Hà Nội đến Quảng Châu rồi bay sang Pnompenh. Từ Phnompenh lấy ô tô chạy về chiến khu Tây Ninh giao tiền sẽ vượt qua nhiều điểm chốt của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Nhưng với rất nhiều phương án đối phó tài tình của những cán bộ trong đường dây, nhiều lần chuyển tiền bằng đường hàng không trót lọt, nhiều triệu đô la đã tới Trung ương cục miền Nam an toàn, nhanh chóng.

Lịch sử của NHNN cũng ghi nhận, ông Lê Hoàng - Đặc phái viên Quỹ Ngoại tệ đặc biệt tại Pháp khi đó cũng vài lần vận chuyển tiền từ Paris sang Pnompenh trót lọt. Mỗi lần đi như vậy, ông Hoàng thường tự khóa tay mình với vali tiền để gắn chặt trách nhiệm của mình với tổ chức, sẵn sàng chấp nhận hy sinh nếu bị phát hiện.

Trước khi con đường vận chuyển bằng hàng không được sử dụng, Bộ Chính trị đã tính đến phương án lâu dài cho công tác tài chính phục vụ cuộc kháng chiến lâu dài. Cuối thập kỷ 60 của thế kỷ 20, ông Lữ Minh Châu thường gọi là Ba Châu, một cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, tốt nghiệp nghiệp vụ tài chính ngân hàng ở Liên Xô đã được Bộ Chính trị cử sang Campuchia gây dựng cơ sở làm đầu mối trong con đường vận chuyển tiền mà Phnompenh là điểm quan trọng để chuyển tiền về Trung ương Cục.

Cuộc “giải cứu” tiền từ Campuchia

Công việc vận chuyển đang thuận buồm xuôi gió thì chính trường Campuchia nổi sóng. Những cán bộ thuộc đường dây vận chuyển tiền như “ngồi trên đống lửa” khi nỗi lo về khối tiền lớn của cách mạng bị mắc kẹt ở Campuchia ngày càng lớn dần. Nhiệm vụ chuyển tiền về Việt Nam ngày càng cấp bách. Một kế hoạch “giải cứu” tiền đã được nhất trí thông qua tại cuộc họp Đảng ủy N2683 tại Phnompenh. Các kế hoạch được đặt ra. Một là, phải đào hết số tiền mới đổi đã được chôn dưới đất nền Công ty Tân Á chuyển về Việt Nam càng sớm càng tốt. Việc này giao cho ông Ba Châu. Hai là, chia nhân sự ra làm hai tốp, rời khỏi Phnompenh. Ba là, tốp của ông Ba Châu theo đường giải thoát tiền.

Đúng kế hoạch, sáng sớm ngày 11/4/1970, ông Ba Châu cùng với một số đồng chí lên xe rời Phnompenh. Hai chiếc xe chở đầy mắm bù hốc - một loại mắm truyền thống của người Campuchia, trong đó là khối lượng lớn tiền đã được bọc kỹ càng. Phía sau xe bám đầy ruồi, bốc lên mùi khắm nồng nặc đặc trưng của loại mắm này khiến các trạm kiểm soát của địch không muốn kiểm tra. Tuy vậy, trên đường đi, toàn bộ nhóm vận chuyển luôn cảnh giác cao độ, sẵn sàng đối mặt với tình huống xấu xảy ra, chấp nhận đổ máu hi sinh. Chiều ngày 11/4/1972, xe chở tiền đã về đến Long Tiên, một xóm nhỏ của Việt kiều Campuchia nằm bên bờ sông Long Tiên, nối với kênh Vĩnh Tế của Việt Nam. Tiền được lực lượng chờ sẵn bốc xếp vào hang cất giấu.

Tuy nhiên, nơi giấu tiền này là vùng cách mạng chưa có cơ sở trong dân. Lực lượng bảo vệ kho tiền chưa đầy một tiểu đội, trong khi ngụy quân đang đóng rất gần. Như vậy, độ rủi ro rất cao. Các cán bộ làm nhiệm vụ vận chuyển tiền đã quyết định chuyển hết số tiền mang về từ Campuchia chứ không chia làm hai lần như lệnh của Trung ương Cục.

Ngày mùng 4/5/1972, cuộc giao nhận tiền diễn ra sau mấy đêm bàn bạc giữa những người có trách nhiệm. Xe chở tiền chạy trên ruộng khô, đâm thẳng xuống bờ sông. Hàng trăm tay súng bám theo xe quyết tử bảo vệ tiền. Lực lượng quân sự miền Tây Nam Bộ bảo vệ đưa tiền qua sông chuyển về Trung ương Cục ở Tây Ninh.

Từ năm 1973, nhu cầu về tiền cho chiến trường miền Nam càng gia tăng. Việc đổi hàng triệu đô la Mỹ ra tiền Sài Gòn, tiền RIA, tiền bạc, tiền kíp ngày càng cần nhiều và nhanh hơn. Nhưng nếu mang cả bao tải tiền cho ngân hàng đổi thì chắc chắn bị nghi ngờ. Các cán bộ N2683 nghĩ ra cách xé lẻ tiền mang ra và cứ vậy xoay tua khoảng 15 ngày là đến lượt. Tại vùng ven Sài Gòn, nhiều nhánh nhỏ trong đường dây vận chuyển tiền của N2683 được thiết lập với rất nhiều vỏ bọc khác nhau, vượt qua mọi hàng rào ngăn chặn của lực lượng Việt Nam Cộng hòa.

Tổng kết toàn chiến dịch, số tiền được chuyển từ B29 vào chiến trường miền Nam gần một tỷ USD, ghi nhận những chiến công thầm lặng nhưng vô cùng lớn lao trong việc chi viện tiền tệ cho chiến trường miền Nam. Năm 2009, Đảng, Nhà nước đã trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang cho tập thể B29, N2683 và C32. Hiện, các cán bộ của 3 tổ chức này đã già yếu, không ít người đã ra đi mang theo bí mật về những hoạt động của mình. Nhưng với họ, việc cống hiến cả tuổi thanh xuân với muôn vàn hiểm nguy, gian khó được xem như là trách nhiệm tự nhiên đối với Tổ quốc, với dân tộc…

Tin Cùng Chuyên Mục