Thị trường mía đường Việt Nam đang trải qua giai đoạn nhiều thử thách. Dù giá đường thế giới có dấu hiệu phục hồi, giá trong nước lại diễn biến ngược chiều với mức giảm đáng kể trong những tháng đầu năm 2025. Theo số liệu từ Hiệp hội Mía đường Việt Nam (VSSA), giá đường kính trắng bình quân đã giảm từ 19.300 đồng/kg trong tháng 1/2025 xuống còn 18.400 đồng/kg vào tháng 3/2025. Tương tự, giá đường tinh luyện giảm từ 21.200 đồng/kg xuống 20.400 đồng/kg, và đường vàng cũng giảm từ 20.300 đồng/kg xuống 19.500 đồng/kg.
Nguyên nhân chính của tình trạng này được cho là do nguồn cung đường dồi dào. Lũy kế đến hết tháng 2/2025, sản lượng đường cả nước ước đạt 476.000 tấn, được chế biến từ 5,08 triệu tấn mía. Tuy nhiên, tốc độ tiêu thụ không theo kịp sản lượng sản xuất, dẫn đến lượng đường tồn kho tăng vọt, gây áp lực lớn lên giá bán.
Lợi nhuận doanh nghiệp phân hóa, phần lớn sụt giảm
Báo cáo tài chính quý 1/2025 (hoặc quý 3 niên độ 2024-2025, tùy theo niên độ kế toán của từng doanh nghiệp) của các công ty mía đường niêm yết đã phác họa một bức tranh kinh doanh không mấy khả quan.
Đường Quảng Ngãi (QNS), doanh nghiệp áp dụng niên độ tài chính theo năm dương lịch, báo lãi ròng quý 1/2025 đạt 392 tỷ đồng, giảm 26% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức lợi nhuận thấp nhất của QNS kể từ quý 2/2023. Doanh thu thuần cũng giảm 10% xuống còn 2.269 tỷ đồng. Đáng chú ý, mảng đường chịu ảnh hưởng nặng nề nhất với doanh thu giảm 35% (còn 734 tỷ đồng) và lãi gộp lao dốc 45%. Biên lãi gộp mảng đường theo đó thu hẹp từ 28,9% cùng kỳ xuống chỉ còn 24,1%. Theo QNS, sức cầu yếu, giá đường nội địa giảm nhẹ cùng với sự xâm nhập của đường nhập lậu và đường lỏng nhập khẩu là những yếu tố chính tác động tiêu cực đến kết quả kinh doanh. Với kế hoạch lãi ròng 1.790 tỷ đồng cho cả năm 2025 (giảm 25% so với năm 2024), QNS mới chỉ thực hiện được 22% mục tiêu sau quý đầu tiên. Hiện QNS đang triển khai 3 dự án lớn với nguồn vốn hơn 5.000 tỷ đồng tiền dư, bao gồm nâng công suất nhà máy đường An Khê lên 25.000 tấn mía/ngày (TMN), mở rộng nhà máy điện sinh khối An Khê lên 135MW và xây dựng nhà máy Ethanol An Khê.
Trái ngược với xu hướng chung, TTC AgriS (SBT), doanh nghiệp dẫn đầu ngành về quy mô, lại ghi nhận tăng trưởng doanh thu trong quý 3 niên độ 2024-2025 (từ 01/01/2025 đến 31/03/2025). Cụ thể, doanh thu thuần đạt 7.289 tỷ đồng, tăng 18% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, giá vốn hàng bán tăng nhanh hơn doanh thu khiến biên lãi gộp thu hẹp còn 10,2%, giảm 2,6 điểm phần trăm. Dù vậy, nhờ tối ưu hóa chi phí tài chính (giảm 21%) và kiểm soát hiệu quả chi phí quản lý, bán hàng, SBT vẫn báo lãi ròng 217 tỷ đồng, tăng 6% so với cùng kỳ. Đường vẫn là mảng kinh doanh chủ lực, đóng góp 91% (tương đương 6.659 tỷ đồng) vào cơ cấu doanh thu của SBT, trong khi mật đường chiếm khoảng 4%. Sản lượng tiêu thụ trong quý 3 của SBT đạt gần 348.000 tấn, tăng 26%, trong đó tiêu thụ nội địa tăng 31% và xuất khẩu tăng 16%. Lũy kế 9 tháng đầu niên độ 2024-2025, SBT đạt doanh thu 21.648 tỷ đồng (tăng 11%) và lãi ròng 652 tỷ đồng (tăng 18%), hoàn thành lần lượt 83% kế hoạch doanh thu và 86% kế hoạch lợi nhuận năm.
Đường Kon Tum (KTS) cũng duy trì được đà tăng trưởng lợi nhuận, dù mức tăng chỉ khiêm tốn 1%, đạt hơn 11,4 tỷ đồng trong quý 3 niên độ. Doanh thu thuần giảm 25% còn 64 tỷ đồng, nhưng nhờ giá vốn giảm sâu hơn, biên lãi gộp của KTS đã cải thiện ấn tượng 6,4 điểm phần trăm, lên mức 31,6%. Đây là biên lãi gộp cao nhất toàn ngành trong quý này và cũng là mức cao nhất của KTS trong một thập kỷ qua. Doanh thu chủ yếu vẫn từ bán đường thành phẩm và mật, nhưng cả hai đều giảm lần lượt 32% và 35%. Nhờ nửa đầu niên độ tăng trưởng mạnh, lũy kế 9 tháng, KTS đạt doanh thu hơn 240 tỷ đồng (tăng 50%) và lãi trước thuế hơn 31 tỷ đồng (tăng 179%), vượt 16% kế hoạch năm. Lãi ròng 9 tháng ước đạt khoảng 30 tỷ đồng, tăng 187%.
Ngược lại, Mía đường Lam Sơn (Lasuco, LSS) là một trong những doanh nghiệp sụt giảm mạnh nhất quý này. Doanh thu quý 3 niên độ giảm 18% còn hơn 595 tỷ đồng; lợi nhuận ròng giảm 40% xuống còn 19 tỷ đồng. Mặc dù biên lãi gộp tăng nhẹ lên 13,8%, chi phí tài chính và chi phí bán hàng tăng mạnh đã ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận. Lũy kế 9 tháng, doanh thu LSS giảm 7% còn 1.664 tỷ đồng, lãi trước thuế đạt gần 76 tỷ đồng (giảm 29%). Với mục tiêu lãi cao nhất 7 năm ở mức gần 144 tỷ đồng cho cả niên độ, LSS mới thực hiện được khoảng 53% kế hoạch. Lãi ròng 9 tháng đạt 58,5 tỷ đồng, giảm 35%.
Mía đường Sơn La (SLS) ghi nhận lãi ròng quý 3 niên độ giảm 13% xuống còn 89 tỷ đồng, mặc dù doanh thu tăng 20% lên 290 tỷ đồng. Nguyên nhân chính là do giá vốn tăng vọt 40%, khiến biên lãi gộp co hẹp còn 30,8%, mức thấp nhất trong vòng 2 năm. Công ty cho biết, thị trường đường trong nước cung vượt cầu, kết hợp với ảnh hưởng từ đường lậu, đã đẩy giá bán giảm mạnh. Tuy nhiên, nhờ kết quả vượt kế hoạch từ nửa đầu niên độ, SLS vẫn vượt 85% mục tiêu lợi nhuận cả năm, với lãi ròng lũy kế 9 tháng đạt gần 278 tỷ đồng (giảm 5% so với cùng kỳ), dù doanh thu mới thực hiện được 72% kế hoạch. SLS được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp do hoạt động tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên lãi trước và sau thuế bằng nhau.
Tồn kho phình to, áp lực dư cung đè nặng
Tình trạng tồn kho tăng cao là xu hướng chung của ngành mía đường trong kỳ vừa qua. Tính đến ngày 31/03/2025, lượng hàng tồn kho của QNS đã tăng 85% so với đầu năm, lên mức 2.450 tỷ đồng, chủ yếu do hàng thành phẩm tăng gấp 5,4 lần, đạt hơn 1.920 tỷ đồng. Tương tự, hàng tồn kho của SBT tăng 10% so với đầu niên độ (30/06/2024), đạt 4.402 tỷ đồng. Các doanh nghiệp khác như LSS cũng ghi nhận tồn kho tăng 79% lên 1.975 tỷ đồng, KTS tăng 55% lên 236 tỷ đồng, và SLS tăng 43% lên 619 tỷ đồng.
Áp lực dư cung, cạnh tranh từ đường nhập khẩu trong khối ASEAN với thuế suất chỉ 5%, đường lậu qua biên giới Tây Nam và sự gia tăng của các sản phẩm thay thế như siro ngô cao phân tử (HFCS) đã làm giảm nhu cầu tiêu thụ đường mía truyền thống. Bên cạnh đó, chi phí sản xuất cao, năng suất mía thấp và hiệu quả quản trị vùng nguyên liệu còn hạn chế tiếp tục là những thách thức lớn khiến các doanh nghiệp đường trong nước gặp khó trong việc cạnh tranh.
Triển vọng nào cho ngành mía đường?
Nhiều chuyên gia dự báo, trong ngắn hạn, giá đường nội địa sẽ tiếp tục chịu áp lực giảm do lượng tồn kho lớn và cạnh tranh gay gắt. Tuy nhiên, nếu các biện pháp phòng vệ thương mại được Chính phủ thực thi hiệu quả hơn và các doanh nghiệp nỗ lực cải thiện năng suất, giảm giá thành sản phẩm, thị trường đường trong nước có thể dần ổn định trở lại từ cuối năm 2025.
Về dài hạn, giá đường Việt Nam vẫn sẽ phụ thuộc nhiều vào biến động của giá thế giới, các chính sách thương mại quốc tế và năng lực cạnh tranh nội tại của ngành. Các doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan quản lý cần theo dõi sát diễn biến thị trường, xây dựng các kịch bản ứng phó linh hoạt để giảm thiểu rủi ro và tận dụng cơ hội khi thị trường có những biến động tích cực hơn.