Chỉ được trở lại vị trí công tác sau khi có kết luận không tham nhũng
Nghị định 134 của Chính phủ hiệu lực từ ngày 15/2 gồm một số quy định mới liên quan đến phòng, chống tham nhũng. Nghị định 59 năm 2019 trước đây quy định người bị tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác được trở lại vị trí công tác ban đầu khi: Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng; hoặc hết thời gian tạm đình chỉ, tạm thời chuyển vị trí công tác khác.
Tuy nhiên, Nghị định 134 chỉ quy định người bị tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển vị trí công tác khác chỉ được trở lại vị trí công tác ban đầu sau khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kết luận người đó không có hành vi tham nhũng.
Do đó, dù hết thời gian tạm đình chỉ, tạm chuyển công tác mà chưa có kết luận không tham nhũng, cán bộ không được trở lại vị trí công tác cũ.
Quy định mới về cấp, đổi thẻ nhà báo
Kể từ ngày 15/2 khi thông tư số 31 của Bộ Thông tin và Truyền thông có hiệu lực sẽ quy định chi tiết và hướng dẫn về hồ sơ, thủ tục cấp, đổi, cấp lại và thu hồi thẻ nhà báo.
Điểm mới đáng chú ý nhất của thông tư này là quy định về việc người đề nghị cấp thẻ nhà báo phải kê khai số định danh cá nhân (Mẫu số 1), thay vì phải kê khai một số trường thông tin (quê quán; nơi ở hiện nay; số giấy chứng minh nhân dân/thẻ căn cước công dân).
Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, các trường hợp này tạm thời phải kê khai thông tin về ngày sinh, dân tộc (để phục vụ việc in thẻ và xác định điều kiện của người được cấp thẻ là người dân tộc) do cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chưa hoàn thành, chưa được chia sẻ.
Thời gian làm thêm của lao động thời vụ tăng lên 40 giờ/tháng
Có hiệu lực từ 1/2, Thông tư 18 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định rõ về giờ làm việc, giờ nghỉ ngơi với người lao động làm công việc sản xuất có tính thời vụ, gia công theo đơn đặt hàng.
Theo đó, số giờ làm thêm của người lao động thời vụ tăng lên 40 giờ thay vì 32 giờ/tháng như trước đây. Ngoài ra, tổng số giờ làm việc tiêu chuẩn và số giờ làm thêm trong một tuần cũng tăng lên 72 giờ thay vì 64 giờ mỗi tuần như trước.
Đáng chú ý, kể từ 1/2, khi đi làm thêm vào các ngày lễ, Tết, người lao động làm công việc thời vụ không còn được nghỉ bù như quy định trước đây, mà chỉ được tính hưởng lương làm thêm giờ cho ngày làm việc đó.
Điều chỉnh tiền lương, thu nhập đóng bảo hiểm xã hội
Có hiệu lực từ 20/2, Thông tư 36 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định mức điều chỉnh tiền lương và thu nhập tháng đã đóng bảo hiểm xã hội.
Hệ số này được điều chỉnh mỗi năm nhằm bù đắp sự mất giá của đồng tiền ở các thời điểm khác nhau, vì thế, còn được gọi là hệ số trượt giá Bảo hiểm xã hội.
Từ cuối tháng 2, hệ số này tăng nhẹ với mức tăng 0,09 lần áp dụng cho giai đoạn đóng bảo hiểm trước năm 1995. Hệ số trượt giá bảo hiểm xã hội năm 2022 tăng nhẹ so với năm 2021 sẽ giúp mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của người lao động tăng.
Nhờ đó, các khoản tiền được tính dựa trên mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của người lao động tăng theo, trong đó, có tiền bảo hiểm xã hội một lần, tiền lương hưu hàng tháng, tiền trợ cấp tuất một lần…
Miễn tiền sử dụng đất cho người có công
Theo Nghị định 131 của chính phủ có hiệu lực từ ngày 15/2, người có công với cách mạng như thương binh, bệnh binh, bà mẹ Việt Nam anh hùng… được hỗ trợ về nhà ở bằng nhiều hình thức khác nhau.
Cụ thể, những người này được hỗ trợ khi thuê nhà ở xã hội, nhà ở cũ thuộc sở hữu Nhà nước hay được hỗ trợ khi mua nhà ở cũ thuộc sở hữu Nhà nước (không bao gồm tiền sử dụng đất).
Người có công với cách mạng được hỗ trợ giải quyết cho mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội không phải do Nhà nước đầu tư xây dựng; hỗ trợ cho vay vốn ưu đãi của Nhà nước để mua, thuê mua nhà ở xã hội; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở.
Việc hỗ trợ cải thiện nhà ở căn cứ vào công lao, hoàn cảnh của từng người hoặc khi có khó khăn về nhà ở và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
Quy định mới về xuất xứ hàng hóa
Có hiệu lực từ ngày 15/2, Nghị định 111 sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 43 của Chính phủ về nhãn hàng hóa.
Cụ thể, tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu tự xác định và ghi xuất xứ hàng hóa của mình bảo đảm trung thực, chính xác, tuân thủ các quy định pháp luật về xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam hoặc các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Xuất xứ hàng hóa ghi trên nhãn thể hiện bằng một trong các cụm từ sau "sản xuất tại"; "chế tạo tại"; "nước sản xuất"; "xuất xứ"; "sản xuất bởi"; "sản phẩm của" kèm tên nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất ra hàng hóa hoặc ghi theo quy định pháp luật về xuất xứ hàng hóa.
Trường hợp hàng hóa không xác định được xuất xứ theo quy định nêu trên thì ghi nơi thực hiện công đoạn cuối cùng để hoàn thiện hàng hóa. Thể hiện bằng một trong các cụm hoặc kết hợp các cụm từ thể hiện công đoạn hoàn thiện hàng hóa như sau: "lắp ráp tại"; "đóng chai tại"; "phối trộn tại"; "hoàn tất tại"; "đóng gói tại"; "dán nhãn tại" kèm tên nước hoặc vùng lãnh thổ nơi thực hiện công đoạn cuối cùng để hoàn thiện hàng hóa.
Tên nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất ra hàng hóa hoặc nơi thực hiện công đoạn cuối cùng để hoàn thiện hàng hóa không được viết tắt.