Ngày pháp luật

Những thay đổi người lao động cần biết trong Bộ luật lao động 2019

Bách Nguyễn

Kể từ ngày 1/1/2020 - ngày Bộ luật Lao động (BLLĐ) 2019 có hiệu lực pháp luật, nhiều thay đổi lớn ảnh hưởng đến người lao động (NLĐ) cũng bắt đầu đi vào đời sống.

Giao kết hợp đồng bằng lời nói chỉ áp dụng với hợp đồng dưới 1 tháng

Nếu như BLLĐ 2012 cho phép giao kết Hợp đồng lao động (HĐLĐ) bằng lời nói  áp dụng đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, thì BLLĐ 2019 chỉ cho phép áp dụng giao kết hợp đồng bằng lời nói đối với hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng, trừ 1 số trường hợp bắt buộc ký hợp đồng bằng văn bản tại khoản 2 Điều 18, điểm a khoản 1 Điều 145, khoản 1 Điều 162 BLLĐ 2019.

BLLĐ 2019 cũng bổ sung thêm hành vi người sử dụng lao động (NSDLĐ) không được làm khi giao kết, thực hiện HĐLĐ, đó là quy định buộc NLĐ thực hiện HĐLĐ để trả nợ cho NSDLĐ.

Đồng thời, BLLĐ 2019 đã bỏ loại hợp đồng theo mùa vụ. Như vậy, kể từ ngày 01/01/2021, HĐLĐ sẽ được giao kết theo một trong các loại sau đây: HĐLĐ không xác định thời hạn; HĐLĐ xác định thời hạn, trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt của HĐLĐ trong thời gian không quá 36 tháng kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực.

BLLĐ 2019 cũng chấp nhận HĐLĐ được thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu. Cụ thể, HĐLĐ được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như HĐLĐ bằng văn bản.

Những thay đổi người lao động cần biết trong Bộ luật lao động 2019 - Ảnh 1

 

Theo quy định tại BLLĐ 2012 thì chỉ có đối tượng ký HĐLĐ mùa vụ là đương nhiên không phải thử việc. Tuy nhiên, BLLĐ 2019 cũng không áp dụng thử việc đối với HĐLĐ dưới 01 tháng. 

Về thời gian thử việc, BLLĐ  mới bổ sung quy định: Thời gian thử việc không quá 180 ngày đối với công việc của người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp. 

Bộ luật cũng bổ sung thêm 04 trường hợp NLĐ được tạm hoãn HĐLĐ, gồm: NLĐ thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ; NLĐ được bổ nhiệm làm người quản lý doanh nghiệp của công ty TNHH MTV do Nhà nước nắm 100% vốn điều lệ; NLĐ được ủy quyền để thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; NLĐ được ủy quyền để thực hiện quyền, trách nhiệm của doanh nghiệp đối với phần vốn của doanh nghiệp đầu tư tại doanh nghiệp khác.

NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ không cần lý do

Một điểm mới của BLLĐ 2019 được nhiều người quan tâm, đó là quy định NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ không cần lý do. Cụ thể, theo quy định tại BLLĐ 2012, NLĐ có HĐLĐ xác định thời hạn khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ bắt buộc phải có 01 trong những lý do được nêu tại khoản 1 Điều 37 BLLĐ 2012, đồng thời đáp ứng điều kiện về thời gian báo trước. Còn tại BLLĐ 2019, NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ mà không cần lý do chỉ cần đáp ứng điều kiện về thời gian báo trước tại khoản 1 Điều 35 (trừ 01 số trường hợp không cần báo trước). 

Đồng thời, Bộ luật bổ sung quy định về những trường hợp được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ mà không cần báo trước: Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này; Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này; Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; Bị cưỡng bức lao động; Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc; Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này; Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; NSDLĐ cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện HĐLĐ.

Theo BLLĐ mới, NSDLĐ cũng có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ không cần báo trước với 2 trường hợp: NLĐ không có mặt tại nơi làm việc trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn thực hiện HĐLĐ; NLĐ tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên.

Bên cạnh việc chính thức tăng tuổi nghỉ hưu từ năm 2021 (điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035), thì kể từ năm 2021 NLĐ sẽ được nghỉ 02 ngày.