Ngày pháp luật

“Ngã ngửa” về những sản phẩm đầu tiên của các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu ngày nay

Hải Đăng (tổng hợp)

Thật khó tưởng tượng công ty công nghệ hàng đầu thế giới Amazon lúc khởi nghiệp chỉ là một cửa hàng sách hay sản phẩm đầu tiên của hãng điện tử Sony chỉ là một chiếc nồi cơm điện bằng gỗ thô sơ. Rõ ràng, hành trình vạn dặm của những gã khổng lồ đều bắt đầu từ những bước đi nhỏ đầu tiên.

Pixar với chiếc máy tính hình ảnh (1986)

Người sáng lập: Edwin Catmull, Alvy Ray Smith, Steve Jobs

Vị trí đầu tiên: Richmond, California, Mỹ

“Ngã ngửa” về những sản phẩm đầu tiên của các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu ngày nay - Ảnh 1

Pixar ban đầu là một nhóm đồ họa trực thuộc hãng Lucasfilm được thành lập vào năm 1979 với việc thuê Tiến sĩ Ed Catmull từ Viện Công nghệ New York (NYIT), nơi ông phụ trách Phòng đồ họa máy tính (CGL). Tại NYIT, các nhà nghiên cứu đã đi tiên phong trong nhiều kỹ thuật nền tảng CG—đặc biệt là việc phát minh ra "kênh alpha".

Ban đầu, Pixar là một công ty phần cứng máy tính cao cấp với sản phẩm cốt lõi là Máy tính hình ảnh Pixar, một hệ thống chủ yếu được bán cho các cơ quan chính phủ và cộng đồng y tế. Một trong những người mua Máy tính hình ảnh Pixar là Disney Studios, công ty mẹ mà sau này sẽ trở thành đối tác quan trọng nhất của họ.

Intel với chip bộ nhớ (1969)

Người sáng lập: Gordon Moore, Robert Noyce

Địa điểm đầu tiên: Mountain View, California, Mỹ

“Ngã ngửa” về những sản phẩm đầu tiên của các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu ngày nay - Ảnh 2

Intel được thành lập tại Mountain View, California, Mỹ vào năm 1968 bởi Gordon E. Moore, một nhà hóa học được biết đến với "định luật Moore", và Robert Noyce, một nhà vật lý đồng phát minh ra mạch tích hợp.

Khi Intel bắt đầu, họ không sản xuất bộ vi xử lý như thứ làm họ nổi tiếng bây giờ, thay vào đó, họ sản xuất bộ nhớ. Cụ thể là SRAM, DRAM và EPROM. Sản phẩm đầu tiên mà Intel phát hành, vào tháng 4 năm 1969, là 3101 64-bit SRAM. Nó được sản xuất trên quy trình Lưỡng cực Schottky mới và nhanh chóng. Điều này làm cho nó hoạt động rất nhanh (thời gian truy cập 60ns) nhưng rất ngốn điện. Nó tiêu hao 525mW, hơn nửa watt, cho bộ nhớ 64-bit.

PayPal với dịch vụ thanh toán trực tuyến (1998)

Người sáng lập: Ken Howery, Luke Nosek, Max Levchin, Peter Thiel, Yu Pan Russel Simmons, Elon Musk

Vị trí đầu tiên: Palo Alto, California, Mỹ

“Ngã ngửa” về những sản phẩm đầu tiên của các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu ngày nay - Ảnh 3

PayPal được thành lập lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1998 với tên gọi Confinity, một công ty phát triển phần mềm bảo mật cho các thiết bị cầm tay. Confinity được sáng lập bởi Max Levchin, Peter Thiel, Luke Nosek, Ken Howery, Yu Pan và Russel Simmons.

PayPal được phát triển và ra mắt như một dịch vụ chuyển tiền tại Confinity vào năm 1999. Vào tháng 3 năm 2000, Confinity sáp nhập với X.com, một công ty ngân hàng trực tuyến do Elon Musk thành lập. Musk rất lạc quan về sự thành công trong tương lại của hoạt động kinh doanh chuyển tiền mà Confinity đang phát triển.

Vào tháng 10 năm đó, Musk đưa ra quyết định rằng X.com sẽ chấm dứt các hoạt động ngân hàng trực tuyến khác và tập trung vào dịch vụ chuyển tiền PayPal. Công ty X.com sau đó được đổi tên thành PayPal vào năm 2001 và mở rộng nhanh chóng trong suốt cả năm cho đến khi các giám đốc điều hành của công ty quyết định đưa PayPal ra công chúng vào năm 2002.

Twitter bắt đầu với dịch vụ tiểu blog (2006)

Người sáng lập:Jack Dorsey, Noah Glass, Biz Stone, Evan Williams

Vị trí đầu tiên: San Francisco, California, Mỹ

“Ngã ngửa” về những sản phẩm đầu tiên của các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu ngày nay - Ảnh 4

Twitter bắt đầu hoạt động vào năm 2006 khi công ty podcasting Odeo nhận ra rằng họ cần phải đổi mới chính mình và bắt đầu lên ý tưởng sáng tạo mới. Jack Dorsey đã giới thiệu ý tưởng tạo một tin nhắn SMS cho phép người dùng giao tiếp với một nhóm nhỏ người.

Twitter lần đầu tiên được gọi là "status” (trạng thái) cho đến khi nhóm tìm kiếm tên trong từ điển và tìm thấy twitter hoàn toàn phù hợp với nó. Tên sản phẩm ban đầu là twttr.

Dự án bắt đầu vào ngày 21 tháng 3 năm 2006, khi Dorsey đăng thông báo Twitter đầu tiên: "chỉ thiết lập twttr của tôi". Nguyên mẫu cho twitter đã được thử nghiệm như một dịch vụ nội bộ dành cho nhân viên của Odeo nhưng sau đó đã ra mắt công chúng vào tháng 7 năm 2006.

Vào tháng 10 năm 2006, Jack Dorsey, Biz Stone và Evan Williams thành lập Obvious Corporation cùng với các thành viên khác từ Odeo. Sau đó, họ mua lại Odeo từ các nhà đầu tư và các cổ đông khác. Tháng 4 năm 2007, Twitter trở thành công ty riêng của mình.

Hãng Disney với phim hài hoạt hình "Alice Comedies " (1923)

Người sáng lập: Walt Disney, Roy O. Disney

Vị trí đầu tiên: Los Angeles, California, Mỹ

“Ngã ngửa” về những sản phẩm đầu tiên của các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu ngày nay - Ảnh 5

Phim hài "Alice Comedies " là một loạt phim hoạt hình do Walt Disney tạo ra vào những năm 1920, trong đó một cô bé người thật đóng tên là Alice (ban đầu do Virginia Davis thủ vai) và một chú mèo hoạt hình tên là Julius có những cuộc phiêu lưu trong một khung cảnh hoạt hình.

Disney, Ub Iwerks và đội ngũ nhân viên của họ đã thực hiện bộ phim hài Alice đầu tiên dài 10 phút với tựa đề Alice's Wonderland, trong khi vẫn điều hành Xưởng phim Laugh-O-Gram đang sa sút ở Thành phố Kansas, Missouri. Sau khi hoàn thành bộ phim, hãng phim bị phá sản và buộc phải đóng cửa. Sau khi kiếm tiền bằng cách làm nhiếp ảnh gia tự do, Disney đã mua vé tàu một chiều đến Los Angeles, California để sống với người chú bác Robert và anh trai Roy. Tại California, Disney tiếp tục gửi đề xuất cho loạt phim Alice, với hy vọng đạt được thỏa thuận phân phối, thỏa thuận này cuối cùng đã được dàn xếp thông qua Winkler Pictures, do Margaret J. Winkler và hôn phu của cô, Charles Mintz, điều hành.

Mặc dù được coi là dễ thương và hài hước vào thời của họ, Alice Comedies chứa nội dung có thể được coi là đáng ngạc nhiên và hơi khắc nghiệt ngày nay. Mặc dù Alice là một cô bé, nhưng cô phải dành phần lớn thời gian để trốn tránh nguy hiểm, và thậm chí bị bắt cóc bởi những kẻ phản diện trong phim hoạt hình, bị đe dọa bởi những nguy hiểm như bị trói vào một khúc gỗ trong xưởng cưa. Mặc dù tất cả các mối đe dọa của Alice đều là hình vẽ hoạt hình, nhưng một số người có thể thấy hình ảnh hơi khó chịu do nhân vật còn nhỏ và thực tế rằng cô bé là người thật, hoặc họ có thể thấy nó đơn giản là nhẹ nhàng và vui vẻ do cách miêu tả.

Quán cà phê rang nguyên hạt đầu tiên của Starbucks (1971)

Người sáng lập: Jerry Baldwin, Zev Siegl, Gordon Bowker

Vị trí đầu tiên: Seattle, Washington, Mỹ

“Ngã ngửa” về những sản phẩm đầu tiên của các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu ngày nay - Ảnh 6

Cửa hàng Starbucks đầu tiên được mở tại Seattle, Washington, Mỹ vào ngày 31 tháng 3 năm 1971, với sự hợp tác của 3 người bạn quen nhau từ thời sinh viên tại Đại học San Francisco: Giáo viên tiếng Anh Jerry Baldwin, giáo viên lịch sử Zev Siegl và nhà văn Gordon Bowker đã được truyền cảm hứng để bán thiết bị và hạt cà phê chất lượng cao của doanh nhân rang cà phê Alfred Peet sau khi ông dạy họ cách rang cà phê của mình. Bowker nhớ lại rằng Terry Heckler, người đồng sở hữu một công ty quảng cáo với Bowker, đã từng nói rằng những từ bắt đầu bằng "st" có sức mạnh đặc biệt. Những người sáng lập đã nghĩ ra một danh sách các từ bắt đầu bằng "st", và cuối cùng đã dừng lại ở "Starbo", tên một thị trấn khai thác mỏ ở Cascade Range. Từ đó, cả nhóm nhớ đến "Starbuck", tên người bạn đầu tiên của nhân vật thuyền trưởng trong cuốn sách nổi tiếng Moby-Dick.

Cửa hàng Starbucks đầu tiên được đặt tại 2000 Western Avenue thuộc Seattle từ năm 1971–1976, sau đó được chuyển đến 1912 Pike Place. Trong thời gian này, công ty chỉ bán cà phê rang nguyên hạt và chưa pha cà phê để bán. Trong năm đầu tiên hoạt động, họ mua hạt cà phê xanh từ Peet's, sau đó bắt đầu mua trực tiếp từ người trồng trọt.

Nike thời kỳ đầu phân phối giày Nhật Bản (1964)

Người sáng lập: Bill Bowerman, Phil Knight

Vị trí đầu tiên: Eugene, Oregon, Mỹ

“Ngã ngửa” về những sản phẩm đầu tiên của các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu ngày nay - Ảnh 7

Nguồn gốc của Nike có thể bắt nguồn từ một bài luận ở trường. Phil Knight đăng ký học tại Trường Kinh doanh Sau đại học Stanford khi ông có ý tưởng thành lập một công ty giày Nhật Bản chuyên sản xuất các sản phẩm chất lượng với chi phí thấp hơn so với các thương hiệu Đức đang thống trị thị trường vào thời điểm đó. Bài luận của ông có tựa đề "Giày thể thao Nhật Bản có thể làm gì giày thể thao Đức - Máy ảnh Nhật Bản đã làm gì với máy ảnh Đức?". Nó đã truyền cảm hứng cho ông thành lập một doanh nghiệp thực sự vào năm 1964. Nike - khi đó có tên Blue Ribbon Sports - bắt đầu với tư cách là nhà phân phối cho mẫu giày Onitsuka Tiger Running Shoes sản xuất tại Nhật Bản. Ban đầu, Knight đã tự mình bán những đôi giày này từ phía sau chiếc ô tô của mình tại trường đại học Oregon.

Facebook phát triển từ mạng xã hội đại học (2004)

Người sáng lập: M.Zuckerberg, Eduardo Saverin, Andrew McCollum, Dustin Moskovitz, Chris Hughes

Vị trí đầu tiên: Cambridge, Massachusetts, Mỹ

“Ngã ngửa” về những sản phẩm đầu tiên của các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu ngày nay - Ảnh 8

Facebook lần đầu tiên được biết đến với cái tên FaceMash do Mark Zuckerberg lập ra vào năm 2003. Zuckerberg đã viết phần mềm cho trang web Facemash khi anh đang học năm thứ hai đại học. Trang web được thành lập như một loại trò chơi "hot or not" dành cho sinh viên Harvard. Trang web cho phép khách truy cập so sánh hai bức ảnh nữ sinh cạnh nhau và để họ quyết định xem ai hấp dẫn hay không.

Sau khi nổi tiếng và gây nhiều tranh cãi, trang này đã được mở rộng bởi Zuckerberg, cùng với Eduardo Saverin, Andrew McCollum, Dustin Moskovitz và Chris Hughes, và đổi tên thành TheFacebook vào năm 2004. Tư cách thành viên ban đầu được giới hạn bởi những người sáng lập là sinh viên Harvard, nhưng sau đó đã được mở rộng sang các trường cao đẳng khác trong khu vực Boston, Ivy League, và dần dần là hầu hết các trường đại học ở Hoa Kỳ và Canada, rồi đến các tập đoàn, và đến tháng 9 năm 2006 là dành cho tất cả mọi người có địa chỉ email hợp lệ cùng với yêu cầu về độ tuổi từ 13 tuổi trở lên.

Ubisoft với trò chơi "Zombi" (1986)

Người sáng lập: Christian Guillemot, Claude Guillemot, Gérard Guillemot, Michel Guillemot, Yves Guillemot

Địa điểm đầu tiên: Carentoir, Pháp

“Ngã ngửa” về những sản phẩm đầu tiên của các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu ngày nay - Ảnh 9

Ubisoft Entertainment là một công ty trò chơi điện tử của Pháp có trụ sở chính tại Montreuil với một số studio phát triển trên khắp thế giới.

Gia đình Guillemot đã tự thành lập doanh nghiệp hỗ trợ nông nghiệp cho nông dân ở tỉnh Brittany phía tây bắc nước Pháp và các vùng lân cận, bao gồm cả Vương quốc Anh. Năm người con trai của gia đình - Christian, Claude, Gérard, Michel và Yves - đã giúp bán hàng, phân phối, kế toán và quản lý công ty cùng với cha mẹ của họ trước khi học đại học. Cả năm người đều có được kinh nghiệm kinh doanh khi còn học đại học, những kinh nghiệm đã giúp ích cho công việc kinh doanh của gia đình vào thời điểm mà các công ty nông nghiệp đang bắt đầu suy yếu. Năm anh em nảy ra ý tưởng đa dạng hóa để bán các sản phẩm công dụng khác cho nông dân; Claude bắt đầu bằng việc bán phương tiện âm thanh CD, và sau đó các anh em mở rộng sang máy tính và phần mềm bổ sung bao gồm trò chơi điện tử.

Vào đầu những năm 1980, họ thấy rằng chi phí mua máy tính và phần mềm từ một nhà cung cấp ở Pháp đắt hơn so với việc mua cùng loại vật liệu ở Vương quốc Anh và vận chuyển đến Pháp, và nảy ra ý tưởng kinh doanh máy tính và phần mềm qua đặt hàng qua thư. Mẹ của họ nói rằng họ có thể bắt đầu công việc kinh doanh của riêng mình theo cách này miễn là họ tự quản lý nó và chia đều cổ phần cho năm người họ. Doanh nghiệp đầu tiên của họ là Guillemot Informatique, được thành lập vào năm 1984.

Ban đầu, họ chỉ bán qua đặt hàng qua thư, nhưng ngay sau đó đã nhận được đơn đặt hàng từ các nhà bán lẻ Pháp, vì họ có thể hạ giá các nhà cung cấp khác tới 50% giá thành của các sản phẩm mới. Đến năm 1986, công ty này đã kiếm được khoảng 40 triệu franc Pháp (khoảng 5,8 triệu đô la Mỹ vào thời điểm đó). Năm 1985, anh em nhà Guillemot thành lập Tập đoàn Guillemot để phân phối phần cứng máy tính tương tự. Khi nhu cầu tiếp tục, anh em đã nhận ra video phần mềm trò chơi đang trở thành một tài sản béo bở và quyết định rằng cần phải phát triển mảng này. Ubi Soft được thành lập vào ngày 28 tháng 3 năm 1986. Cái tên Ubi Soft ngụ ý phần mềm “có mặt ở khắp nơi”.

Electronic Arts (EA) với trò chơi đầu tiên "Hard Hat Mack" (1982)

Người sáng lập:Trip Hawkins

Vị trí đầu tiên: San Mateo, California, Mỹ

“Ngã ngửa” về những sản phẩm đầu tiên của các thương hiệu nổi tiếng toàn cầu ngày nay - Ảnh 10

Liệu một chiếc máy tính có thể khiến bạn bật khóc – dòng quảng cáo đã mở đầu cho lịch sử của huyền thoại làng game Electronic Arts (EA). Hard Hat Mack là một trò chơi nền tảng do Michael Abbot và Matthew Alexander phát triển cho Apple II, được xuất bản bởi Electronic Arts vào năm 1983. Các cổng dành cho dòng Atari 8-bit và Commodore 64 được phát hành đồng thời. Đây là một trong năm trò chơi đầu tiên của Electronic Arts và EA gọi nó là "trò chơi thực sự đầu tiên của EA”.

Trong những ngày đầu thành lập, ngoài Hard Hat Mack, EA còn phát hành Archon: The Light and the Dark, M.U.L.E, Worms?, và Axis Assassin.

Tin Cùng Chuyên Mục