Là một trong những thương hiệu sản xuất đồ thể thao hàng đầu thế giới, vậy nhưng mấy ai biết rằng Nike và "cha đẻ" của hãng giày nổi tiếng này Phil Knight phải vượt qua bao thăng trầm mới có được vị trí như ngày hôm nay.
Phil Knight tốt nghiệp trường báo chí nhưng đi "bán giày"
Phil Knight sinh ra và lớn lên tại Portland, một thành phố ở miền Tây nước Mỹ. Là con trai của nhà báo Bill Knight, Phil Knight theo nghiệp cha, tốt nghiệp cử nhân báo chí năm 1959 rồi đi nghĩa vụ 1 năm.
Sau khi xuất ngũ, Phil tiếp tục học thạc sĩ tại đại học Stanford. Thuở thiếu niên, Phil có ước mơ được trở thành một vận động viên điền kinh nổi tiếng. Ông đã đại diện cho trường đại học Oregon đi thi đấu nhưng không thành công.
Trong thời gian học lấy bằng MBA tại Stanford, Phil nhen nhóm ý tưởng mở công ty giày bởi ông nhận thấy người Mỹ cần những đôi giày thể thao tốt hơn.
Để hiện thực hóa ý tưởng, sau khi tốt nghiệp, Phil đã thực hiện chuyến vòng quanh thế giới để tìm đôi giày chạy ưng ý và dừng chân tại Nhật Bản. Gặp gỡ với nhân viên của Onitsuka, Phil tự giới thiệu mình là giám đốc hãng giày, thậm chí ông còn tự "vẽ" ra tên công ty và đề nghị trở thành người đại diện của Onitsuka tại Mỹ.
Bất ngờ là lời đề nghị này được chấp thuận dù trên thực tế Phil chẳng có gì trong tay còn hãng Onitsuka thì lại không mấy quan tâm đến thị trường quốc tế. Phil về nước với 40 đôi giày xếp sau thùng xe. Năm 1964, Phil cùng Bill Bowerman, người thầy dạy điền kinh tại đại học Oregon, mỗi người bỏ 500 USD thành lập công ty Blue Ribbon Sports (sau này trở thành Nike).
Đơn hàng đầu tiên của công ty là 200 đôi giày Tiger. Sau đó ông rong ruổi khắp nơi bán những đôi Tiger Nhật chất sau thùng xe. Đến năm 1969, Phil đã thu về hơn 1 triệu USD cho hãng giày Tiger.
Năm 1971, không muốn quá phụ thuộc vào Tiger, Phil và Bill Bowerman đã tự sản xuất đôi giày do chính mình thiết kế, đồng thời đổi tên Công ty Blue Ribbon Sports thành Nike - tên nữ thần chiến thắng trong thần thoại Hy Lạp.
Mẫu giày đầu tiên của Nike do Bowerman thiết kế nảy sinh từ ý tưởng làm bánh waffle cho bữa sáng. Hình dáng của chiếc bánh giúp Bowerman nảy ra ý tưởng phần đế giày có rãnh, giúp giày của vận động viên bám chặt hơn, ma sát tốt hơn trên đường chạy. Ý tưởng này đã khai sinh ra “Nike Waffle Trainer”.
Với chất lượng sản phẩm tốt, Nike là lựa chọn của nhiều vận động viên điền kinh chuyên nghiệp. Để chuẩn bị cho Thế vận hội Olympic năm 1972 ở Munich, Phil đã tung ra mẫu giày Cortez. Cặp đôi tin chắc rằng, mẫu giày đa dạng về màu sắc cùng logo "swoosh" lần đầu ra mắt của Nike sẽ hấp dẫn người dùng. Và họ đã đúng.
Mẫu giày mới trở thành lựa chọn hàng đầu của các vận động viên Olympic, đem về doanh thu 2 triệu USD. Từ một hãng giày nhỏ, Nike đã vươn lên và ghi tên mình vào danh sách các công ty giày sneaker lớn nhất ở thời điểm bấy giờ.
Nike tăng trưởng nhanh chóng trong suốt những năm 1970 và 1980. Doanh thu của công ty tăng từ 28,7 triệu USD năm 1972 lên 867 triệu USD năm 1983. Một trong những thành công lớn nhất của Nike là ký hợp đồng quảng cáo với Michael Jordan và tung ra mẫu Air Jordan - dòng giày đầu tiên của Nike có tính năng Nike Air với túi khí ở gót chân, thêm đệm để hỗ trợ cho vận động viên bóng rổ.
Air Jordan có mặt ở kệ các cửa hàng của Nike vào tháng 3/1985 với giá 65 USD/đôi và nhanh chóng trở thành một trong những đôi sneaker được ưa chuộng nhất mọi thời đại. Chỉ trong hai tháng, công ty đã thu được 70 triệu USD tiền bán dòng giày này, góp vào doanh thu hơn 100 triệu USD cho Nike cuối năm đó. Đến nay, hàng triệu đôi Air Force vẫn được tiêu thụ mỗi năm.
Tuy nhiên, doanh thu của thương hiệu giày bắt đầu sụt giảm vào những năm giữa thập niên 80. Knight nhận ra rằng, dù Nike cố gắng tiếp thị đến nhiều vận động viên thể thao nhưng khách hàng của họ đa phần là những công dân bình thường, hầu hết thậm chí còn không sử dụng giày cho các hoạt động thể thao.
Bước chuyển mình đưa Nike đến thành công
Knight thay đổi Nike từ công ty chuyên về định hướng sản phẩm thành công ty chuyên về tiếp thị. Ông bắt đầu quan tâm đến khách hàng hàng ngày, cuối cùng, doanh số bán đã tăng trở lại. Đến cuối năm 1991, doanh số của hãng đạt trên 3 tỷ USD.
“Điều quan trọng nhất mà chúng tôi cải tổ chính là tiếp thị sản phẩm. Việc này sẽ liên kết toàn bộ tổ chức với nhau. Những yếu tố về thiết kế và tính năng của từng sản phẩm là một phần trong quy trình tiếp thị", Knight chia sẻ với Harvard Business Review năm 1992.
Vào thập niên 1990, Nike đối mặt với một trở ngại khác khi công ty vướng vào bê bối công xưởng bóc lột sức lao động của công nhân và vi phạm luật lao động. Khách hàng bắt đầu tẩy chay sản phẩm Nike, khiến thương hiệu này chìm trong thảm họa kéo dài gần một thập kỷ.
Đến khoảng năm 1998, một lần nữa, Knight cải tổ Nike để cứu thương hiệu bằng việc nâng lương tối thiểu cho công nhân, cải tiến khâu giám sát lao động và đảm bảo các nhà xưởng luôn vận hành với không khí trong lành.
Niềm tin của người tiêu dùng bắt đầu quay trở lại và Nike một lần nữa lấy lại vị thế thương hiệu giày hàng đầu thế giới. Nike giữ vững chỗ đứng trên thị trường và trong lòng người tiêu dùng khi kiểm soát 62% thị phần giày thể thao tại Mỹ với doanh thu hàng năm đạt 30 tỷ USD.
Thành công của Nike đã khiến khối tài sản của Knight tăng lên đáng kể giúp ông thường xuyên nằm trong nhóm những tỷ phú giàu nhất thế giới. Sau hơn 52 năm cống hiến cho công ty, Phil Knight sở hữu khối tài sản trị giá 49,9 tỷ USD, xếp thứ 25 trong danh sách người giàu nhất thế giới năm 2021 của tạp chí Forbes bình chọn.